Bảng chữ cái Bồ Đào Nha. Chữ Quốc ngữ. Trang đầu Phép giảng tám ngày in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ là tập hợp các chữ cái Latinh và dấu phụ được dùng cùng 25 năm dẫn đầu trong sự nghiệp giáo dục Anh ngữ tại Việt Nam, cũng là 25 năm ILA dựng xây một môi trường làm việc đáng mơ ước tôn vinh giá trị con người. lắng khi tiếp nhận thông tin học phí và một số khoản thu dịch vụ khác năm học 2022-2023 tăng so với năm học SO SÁNH GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ GIÁO DỤC TRUNG QUỐC 1 PHẦN A. HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRUNG QUỐC Hơn 50 năm qua, từ ngày nước Trung Hoa mới ra đời, nền giáo dục của Trung Quốc đó thu. chăng đó là cái bước khởi đầu để đổi mới toàn diện và triệt để giáo Bài viết này sẽ tập trung phân tích các trường công lập và tư thục tại Việt Nam theo chương trình giảng dạy của Việt Nam hơn là các trường quốc tế. Xuất phát từ nguyên nhân cách giảng dạy tại các trường quốc tế ở Việt Nam gần hơn với giáo dục của Mỹ hơn là các trường theo chương trình giảng dạy của Việt Nam. So sánh hệ thống giáo dục Việt Nam và Đức. Trong sự nghiệp giáo dục, để so sánh hệ thống giáo dục Việt Nam và Đức thì Việt Nam cần phải học tập Đức rất nhiều. Bởi vì Đức là một trong 3 quốc gia (Đức, Mỹ, Nhật) bước vào nền kinh tế trí thức sớm nhất thế So sánh ẩm thực Trung Quốc và Việt Nam. Là hai đất nước láng giềng ở cùng khu vực châu Á, Việt Nam và Trung Quốc chắc chắn có rất nhiều điểm tương đồng về văn hóa, có cả ẩm thực. Thế nhưng, mỗi đất nước lại có những tinh hoa riêng biệt. Hãy cùng so sánh ẩm thực Trung Quốc và Việt Nam xem chúng có điểm gì giống và khác nhau nhé. VUmk. Như chúng ta đã biết, các nước châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản là những nước có nền phong kiến lâu dài, và kéo theo đó là những kỳ thi, những kỳ thi đầy áp lực và căng thẳng mà chúng ta đã từng xem qua phim ảnh cũng như được chứng nghiệm thực tế khi đến tham quan các nước bạn. Vậy những kỳ thi của các nước Đông Á xung quanh chúng ta như thế nào, có khác gì với Việt Nam hay không, áp lực về kỳ thi có nhiều như ở Việt nam?. Bài viết này, gia sư Huế sẽ chia sẻ với các bạn những thông tin mà gia sư Huế đã sưu tầm được. Đây là những thông tin rất bổ ích cho các bạn đang có ý định đi du học ở các nước quanh chúng ta. Như chúng ta đã biết, những nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore luôn là những nước đứng đầu về khả năng Toán học và khoa học, xếp trong 11 vị trí đầu tiên trên thế giới theo đánh giá từ Chương trình đánh giá học sinh quốc tế PISA. Vậy để có được kết quả cao như vậy, các quốc gia châu Á hay cụ thể hơn là các học sinh trong các quốc gia đó đã trải qua một nền giáo dục như thế nào? Chúng ta cùng đi qua từng nước để cảm nhận các kỳ thi quan trọng mà các học sinh đã trải qua nhé. Đầu tiên chúng ta nói đến Trung quốc Trung Quốc là nước có dân số có số dân đông nhất thế giới, và vì vậy các kỳ thi tuyển sinh vào Đại học ở Trung Quốc cũng diễn ra cạnh tranh không kém. Kỳ thi tuyển sinh ĐH ở TQ gọi là gaokao, đây là kỳ thi được thế giới đánh giá là khó nhất. Kỳ thi diễn ra trong 3 ngày, và thời lượng kỳ thi kéo dài 9 tiếng. Áp lực của các học sinh khi tham gia kỳ thi này là rất khủng khiếp. Có những em phải truyền dịch vì kiệt sức trong kỳ thi. Phụ huynh học sinh phải đặt phòng khách sạn gần điểm thi rất sớm và phụ huynh tuy không tham gia kỳ thi nhưng vẫn theo con và ngồi hồi hộp ở bên ngoài điểm thi. Chính phủ cho chặn xe trên các con đường xung quanh điểm thi vào các ngày diễn ra kỳ thi để tránh tiếng ồn, ảnh hưởng đến sự tập trung của các em. Một số bạn nữ đến ngày đèn đỏ cũng phải dùng thuốc tránh thai để trì hoãn kỳ kinh. Theo thống kê, số ứng viên dự thi rất đông, tuy nhiên số đậu được vào các trường đại học cũng rất ít, cụ thể 2% học sinh tham gia kỳ thi trúng tuyển vào 38 trường đứng đầu ở Trung quốc, 0,5% đậu vào trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa. Đây là 2 ngôi trường được xem như Havard của Mỹ. Nhiều chuyên gia giáo dục nhận định, việc tổ chức các kỳ thi đầy căng thẳng như vậy sẽ bóp nghẹt sự sáng tạo của học sinh, cách đánh giá dựa trên các kỳ thi tương đối phiến diện. Học sinh các cấp học dành thời gian cho việc nhồi nhét kiến thức quá nhiều và phần học thuộc lòng rất nặng. Gia sư Huế – Kỳ thi tuyển sinh đại học ở Trung quốc Hong Kong Học sinh ở Hong Kong cũng được kỳ vong cao của cha mẹ ngay từ khi còn rất nhỏ. Việc chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học của các em cũng được chuẩn bị từ khi còn rất bé. Từ khi bé 9 tuổi đã phải tham gia kỳ thi TSA, đây là kỳ thi đánh giá khả năng Tiếng Anh, Tiếng Trung và Toán. Kết quả của kỳ thi sẽ dùng để xếp hạng học sinh vào các trường. Sự bức xúc và áp lực của các kỳ thi đã dẫn đến sự việc vào năm 2015, hàng nghìn phụ huynh ký đơn kiến nghị trên Facebook đề xuất chính phủ bỏ kỳ thi, và chính phủ cũng đã phải nhìn nhận lại nền giáo dục. Ngay từ khi còn bé, trẻ ở HongKong đã phải tham gia kỳ phỏng vấn để vào mẫu giáo, nhà trẻ. Và từ đấy, các kỳ thi và các cuộc phỏng vấn luôn song hành cùng các em cho đến khi vào đại học. Theo các báo cáo, 88% phụ huynh ở Hongkong đã và đang chi tiền cho việc học thêm hoặc gia sư tại nhà cho con. Ở Trung quốc là 93% và toàn cầu là 63%. Cha mẹ ở HongKong phải từ bỏ các sở thích, niềm vui của cá nhân để đầu tư cho con học tập. 37% đã phải từ bỏ các hoạt động giải trí. Năm 2017, kỳ thi tuyển sinh của Đại học Hồng Kông có thí sinh tham dự và sĩ tử vượt qua được cánh cổng cao của ĐH Hồng Kông với tỷ lệ chọi là 1 5. Dạy kèm Huế – Kỳ thi tuyển sinh đại học ở Hồng Kong Đảo quốc Singapore Vậy ở đảo quốc Singapore, nơi có nền giáo dục trong top thế giới, việc diễn ra các kỳ thi để xét tuyển vào đại học có tốt hơn? Theo các báo cáo mà Trung tâm gia sư Huế sưu tầm được về kỳ thi tuyển sinh Đại học vào ĐH Quốc gia Singapore, đây được xem là ngôi trường mà bất cứ sĩ tử nào cũng một lần đặt chân vào, ĐH QG Singapore được xếp hạng cao nhất trong bảng xếp hạng các trường đại học trên thế thới của Times Higher Edu 2018. Số lượng hồ sơ nộp vào là và chỉ khoảng 25% trong số đó, tức là khoảng 7000 sinh viên được trúng tuyển. Trung tâm gia sư Huế – Kỳ thi tuyển sinh đại học ở Singapore Trẻ em ở Singapore, sau 6 năm học sẽ tham gia kỳ thi đầu tiên là kỳ thi tốt nghiệp tiểu học PSLE. Sau kỳ thi này, các em sẽ được phân loại vào 3 nhóm, nhóm có kết quả cao sẽ được tham gia kỳ thi tuyển sinh ĐH sau khi tốt nghiệp trung học, nhóm có kết quả thấp nhất sẽ được cho đi học đào tạo nghề. Và hệ quả tất yếu, bất cứ phụ huynh nào cũng đều mong cho con mình vào nhóm đầu dựa vào nguồn lực tài chính và mối quan hệ xẽ hội vì tương lai của con. Theo thống kê, học sinh 15 tuổi ở Sin dành 9 tiếng/tuần để làm bài tập ở nhà, con số này gấp đôi con số trung bình chung của thế giới. Và theo chính phủ nước này, các quyết sách vẫn cần được nghiên cứu và bổ sung để giảm sự căng thẳng và áp lực lo âu cho các em. Năm 2021, Singapore dự kiến sẽ kết thúc hệ thống tính điểm nhằm so sánh kết quả học tập của các học sinh và dừng công bố tên thủ khao của tất cả kỳ thi quốc gia từ năm 2012. Trong phần tiếp theo, gia sư Huế sẽ giới thiệu tiếp về kỳ thi tuyển sinh ở 2 quốc gia được xem nằm top của châu Á là Hàn Quốc và Nhật Bản. Rất mong các bạn đón đọc. Tin bài Gia sư Huế Đọc thêm các bài viết khác tại NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở MỸ SO VỚI VIỆT NAMĐiểm khác biệt giữa hệ thống giáo dục Việt Nam và Nhật BảnSỰ KHÁC BIỆT GIỮA NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ NỀN GIÁO DỤC HÀN QUỐCSo sánh Hệ thống giáo dục Việt Nam và Vương quốc Anh NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC Ở MỸ SO VỚI VIỆT NAM “Nếu bạn là cố vấn cao cấp của tổng thống Harry S. Truman, bạn sẽ tỏ thái độ gì đối với việc Mỹ ném bom nguyên tử?”. Đó là một đề bài kiểm tra của học sinh tiểu học tại Mỹ mà chúng tôi từng được đọc trong một bài báo nổi tiếng. Cái đề bài nghe có vẻ cao siêu và xa rời thực tế đó lại lột tả chính xác những gì tinh túy nhất của nền giáo dục Mỹ, một trong những nền giáo dục hàng đầu trên thế giới. Để hiểu về nền giáo dục ở Mỹ, chúng ta hãy cùng bắt đầu bằng một số ví dụ. Bạn đang xem SO SÁNH GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI Theo thống kê của Forbes năm 2016, cả thế giới có 1810 tỷ phú, trong đó số tỷ phú người Mỹ chiếm đến 93% với 1694 người. Đáng chú ý hơn, trong 10 người giàu nhất thế giới thì chỉ có 3 người không phải là người Mỹ. Cũng theo một thống kê khác trong năm 2015, Mỹ có 589,410 bằng sáng chế, chiếm hơn 20% số bằng sáng chế trên toàn thế giới và luôn đứng ở những vị trí đầu tiên trong những nước có nhiều bằng sáng chế nhất thế giới trong hàng chục năm qua. Trong top 20 trường đại học tốt nhất thế giới theo đánh giá của Mỹ cũng áp đảo với 15 trường, đứng thứ 2 là Vương quốc Anh. So sánh hệ thống giáo dục Việt Nam và Mỹ Chừng đó con số thôi cũng đã cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về nền giáo dục của Mỹ. Phải thừa nhận rằng, thành quả mà nền giáo dục của Mỹ mang đến là quá vượt trội so với hầu hết các quốc gia còn lại trên toàn thế giới. Mỹ là đất nước có chất lượng đào tạo tiến sĩ tốt nhất trên thế giới và luôn là môi trường giáo dục được lựa chọn số 1 của các du học sinh quốc tế. Nếu đem so sánh với Việt Nam thì nền giáo dục của đất nước chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều. Phương pháp dạy và học Nền giáo dục Mỹ và Việt Nam khác nhau như thế nào? Quay trở lại với đề bài kiểm mà chúng ta đã đề cập ở phần đầu tiên, đối với học sinh Mỹ, đó là một điều rất bình thường. Tuy nhiên, nếu đem đề bài đó cho học sinh Việt Nam, thì chắc chắn đây sẽ là cả một sự lạ lùng rất lớn. Điểm khác biệt lớn nhất giữa 2 nền giáo dục Mỹ và Việt Nam là ở chỗ đó. Ở Mỹ, ngay từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông học sinh luôn được khuyến khích để bày tỏ quan điểm cá nhân của mình trong bất cứ vấn đề gì, khuyến khích tự tư duy, tự làm chủ, nâng cao phong cách, khả năng suy nghĩ độc lập, giao tiếp và sáng tạo. Phương pháp giảng dạy nền tảng ở Mỹ là hướng dẫn và kích thích sự hứng thú để qua đó thúc đẩy học sinh chủ động tìm tòi, khám phá và đúc kết bài học cho mình. Cách dạy “thầy đọc, trò chép” như ở Việt Nam là hoàn toàn không có ở Mỹ. Học sinh tại Mỹ rất chủ động về mặt thời gian học cũng như được phép lựa chọn giáo viên cho mình. Những bài tập về nhà cao như núi là điều khá xa lạ với học sinh nơi đây. Học sinh Mỹ học vì điều đó cần thiết cho tương lai, học sinh Việt Nam học vì điểm Cũng như các nền giáo dục tiên tiến khác trên thế giới là Anh, Pháp, Đức…nền giáo dục Mỹ chú trọng phát triển tư cách con người bằng rất nhiều những hoạt động ngoài trường lớp. Thông qua những hoạt động này, các giáo viên cũng sẽ phát hiện ra tố chất của mỗi học sinh, qua đó có định hướng để tập trung phát triển tố chất đó. Âm nhạc, Mỹ thuật, Lịch sử, Địa lý…hay bất cứ lĩnh vực nào cũng đều được quan tâm như nhau chứ không chỉ là đơn giản là những môn phụ như ở Việt Nam. Học sinh Việt Nam học vì điểm, học sinh Mỹ học vì cảm thấy cần thiết cho tương lai. Trường học Việt Nam chú trọng thành tích, trường học ở Mỹ chỉ quan tâm đến thành tựu. Nền giáo dục Việt Nam hướng dẫn học sinh tìm kiếm một công việc tốt, nền giáo dục Mỹ dạy cách làm ông chủ. Mặc dù bất cứ sự so sánh nào cũng sẽ có những khập khuyễn bởi còn tùy thuộc vào mức sống và nền văn hóa của mỗi nước, nhưng phải nhìn nhận thực tế rằng, để đạt được những thành công như những nước tiên tiến, nền giáo dục của chúng ta cần phải học tập và tiếp thu những cái tốt nhất và phù hợp với thực tiễn nước nhà. Điểm khác biệt giữa hệ thống giáo dục Việt Nam và Nhật Bản Nhật Bản được biết đến không chỉ là một nước hùng mạnh về kinh tế vào hàng đầu thế giới mà còn được coi là quốc gia có hệ thống giáo dục rất đa dạng và chất lượng. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản được đánh giá đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Anh. Còn Việt Nam? Mới đây Diễn đàn kinh tế thế giới WEF công bố bản báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013 – 2014 thực hiện với 148 nước. Kết quả xếp hạng các hạng mục lớn của báo cáo này cho thấy Về chất lượng giáo dục phổ thông, Việt Nam đứng thứ 67 bảng xếp hạng, thứ 4 trong các nước ASEAN sau Singapore 2, Brunei 23, Malaysia 33. Ở hạng mục Giáo dục đại học và đào tạo, Việt Nam đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng, thứ 7 trong các nước ASEAN sau Singapore 2, Malaysia 46, Brunei 55, Thái Lan 66, Indonesia 64, Philippines 67. Vậy những yếu tố, điều kiện gì khiến cho chất lượng giáo dục Việt Nam thấp hơn Nhật Bản? Sau đây là sơ đồ so sánh hệ thống giáo dục Việt Nam và Nhật bản Sơ đồ so sánh hệ thống giáo dục Việt Nam và Nhật bản 1. So sánh số bậc học, cấp học, số năm học Việt Nam và Nhật Bản đều có các cấp học là mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học và sau đại học thạc sĩ và tiến sĩ nhưng lại có số năm học ở các cấp học lại khác nhau – Mẫu giáo ở Nhật chỉ có 2 năm nghĩ là chỉ nhận các cháu từ 4 đến 6 tuổi nhưng mẫu giáo ở Việt Nam là 3 năm, nhận các cháu từ 3 đến 6 tuổi. Ngoài ra còn có các nhà trẻ nhận các cháu từ 1 đến 3 tuổi – Ở bậc Tiểu học có sự khác biệt rõ rệt về năm học giữa 2 quốc gia Nhật Bản 6 năm từ 6 tuổi đến 12 tuổi, Việt Nam 5 năm từ 6 tuổi đến 11 tuổi – Ở bậc Trung học + Trung học cơ sở Việt Nam 4 năm từ 11 tuổi đến 15 tuổi, Nhật bản 3 năm từ 12 tuổi đến 15 tuổi + Trung học phổ thông cả Việt lẫn Nhật đều 3 năm học từ 15 tuổi đến 18 tuổi – Ở bậc Đại học tùy từng trường và ngành học mà có số năm học khác nhau nhưng đa số là Việt Nam 4 năm từ 18 đến 22 tuổi, Nhật Bản thì 5 năm từ 18 đến 23 tuổi – Sau Đại học Việt Nam ta chia làm 2 bậc là Thạc sĩ 2 năm từ 22 đến 23 tuổi, Tiến sĩ 3 năm từ 23 đến 26 tuổi nhưng Nhật Bản thì sau Đại học gộp Thạc sĩ với Tiến sĩ làm một bậc gồm 4 năm từ 23 đến 27 tuổi – Ngoài ra còn các cấp học khác là + Giáo dục chuyên nghiệp cả Việt Nam và Nhật bản gồm cao đẳng, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp đào tạo từ 2 đến 3 năm, học xong trung học cơ sở, không thi lên trung học phổ thông có thể học luôn lên giáo dục chuyên biệt. + Nhật bản không có giáo dục thương xuyên và giáo dục cho các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể, lực lưỡng vũ trang nhân dân như Việt Nam Ở Việt Nam, học sinh sinh viên bắt đầu năm học từ tháng 9 năm trước đến tháng 6 năm sau và có 3 tháng nghỉ hè, xong học sinh sinh viên ở Nhật Bản thì bắt đầu từ tháng 4 năm trước đến tháng 3 năm sau và thường có 2 tuần nghỉ đông trong khoảng 1 năm học ấy từ khoảng 25/12. Ở Nhật, thời gian bắt đầu đi học trong ngày là 8h30, Việt Nam ta là 7h, 1 tiết của ta và của họ đều 45 phút và có 5 đến 10 phút giải lao. Tuy nhiên hầu hết các trường ở Nhật đều học liền cả sáng đến chiều, nghĩa là thời gian trưa học sinh ăn trưa tại trường, có thể ăn căn tin hoặc từ mang đồ ăn từ nhà theo, còn học sinh Việt Nam thường có 2 tiếng để về nhà trước khi đi học chiều. 2. So sánh về mục tiêu giáo dục Nghị quyết 142 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ những mục tiêu giáo dục là “… Xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế đông đảo vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và ngành nghề, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững những quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội, có năng lực tổ chức và động viên quần chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế do thực tế nước ta đề ra và có khả năng tiến kịp trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.” Mục tiêu giáo dục Nhật bản khác chúng ta ở chỗ Nhật bản theo tư bản chủ nghĩa nên giáo dục của họ cũng trung thành với giái cấp tư sản, giáo dục sẽ cung cấp nhân lực, nhân tài cho các lĩnh vực kinh tế – xã hội nhằm phát triển đất nước. 3. So sánh về nội dung giáo dục Cả Việt Nam và Nhật Bản đều chú trọng “tiên học lễ, hậu học văn” , dạy trò ý thức trước rồi mới dạy kiến thức nhưng do văn hóa 2 nước khác nhau mà cách dạy “tiên học lễ, hậu học văn” của 2 nước có sự khác nhau. Do chữ viết Nhật Bản là chữ hán tượng hình nên rất khó học đối với trẻ nhỏ nên Nhật ưu tiên không dạy chữ viết cho trẻ từ mẫu giáo cho đến lớp 3 mà chỉ dạy cho các cháu ý thức , thực hành như cách tự mặc quần áo, đeo cặp, biết cảm ơn , xin lỗi, cách chào hỏi, lễ phép với người lớn, cách hòa đồng với bạn bè và yêu thương động vật, giờ học chơi là chính, giáo viên không can thiệp mà chỉ đứng từ xa quan sát và hỗ trợ khi cần thiết, kích thích sự tò mò, sáng tạo và ham học. Học sinh nhật bản phải học hết lớp 12 mới đọc được hết 1 tờ báo vì chữ của Nhật rất khó và nhiều loại, Nhật dạy cho học sinh loại chữ Kansai trước, đó là 1 loại chữ được Latinh hóa, rất dễ học để học sinh có thể tiếp cận sách giáo khoa, truyện tranh,… Đến tận lớp 3, học sinh Nhật mới bắt đầu có bài kiểm tra, ưu tiên dạy thực hành nhiều hơn lý thuyết. Chẳng hạn, dạy học sinh về làm nông thì nhà trường cho học sinh được ra đồng và hướng dẫn trồng lúa, các loại rau củ đẻ học sinh tiếp thu kiến thức thực tế đồng thời biết quý trọng lương thực và công sức lao động của các bác nông dân,…. Đến bậc đại học và sau đại học, sinh viên luôn được tiếp thu cái mới, các công nghệ khoa học mới nhất, có ích và được thực hành ngay tại trường và thực tập nhiều nơi….Tóm lại , nội dung giáo dục Nhật Bản thiết thực, cơ bản, hiện đại và toàn diện. Việt Nam ta cần học tập nhiều nội dung giáo dục của họ, đặc biệt là giáo dục ý thức và thực hành cho học sinh. Chữ viết của ta rất đơn giản vì nó gần giống ngôn ngữ Tiếng anh – ngôn ngữ chung của thế giới. Vì vậy học sinh nước ta lớp 2 đã hoàn toàn biết đọc biết viết, đọc sách xem báo, dù nhận thức chưa hiểu. Trẻ mẫu giáo đã được dạy bảng chữ cái, các cháu vừa chơi vừa học nhằm phát triển đầy đủ cả thể lực, trí tuệ, nhân cách. Bước lên từ lớp 1, học sinh có 2 kì kiểm tra lớn là giữa kì và cuối năm, và các bài kiểm tra nhỏ như kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết. Học sinh được kiểm tra liên tục để xét kiến thức và trí nhớ. Nội dung giáo dục luôn xen kẽ dạy kiến thức và ý thức. Chẳng hạn tiểu học, ta vừa dạy học sinh các kiến thức về thế giới tự nhiên vừa bồi dưỡng thái độ, tình cảm cho học sinh để có hành vi tốt đẹp đối với thế giới tự nhiên. Nội dung giáo dục nước ta rất đề cao các truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục phù hợp với các lứa tuổi từ tâm lý đến sinh lý cho học sinh. Tuy nhiên do cơ sở vật chất của Việt Nam ta còn kém, chưa hỗ trợ học sinh nhiều để thực hành nên nhiều môn học mới chỉ dạy học sinh về lý thuyết . Nội dung giáo dục nước ta rất cơ bản, hiện đại nhưng chưa được hoàn thiện và thiết thực. Nhà nước và Bộ giáo dục đào tạo đang cố gắng cải cách tiến bộ và có các biện pháp để giải quyết các hạn chế và ngày một hoàn thiện và nâng cao. 4. So sánh về phương pháp giáo dục Ngày nay, phương pháp giáo dục của nước ta đã có sự đổi mới, học tập từ các quốc gia phát triển trên thế giới, đó là phương pháp dạy học tích cực dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh, tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò. Các học sinh Nhật Bản trong giờ thảo luận nhóm Phương pháp giáo dục của nước ta không còn diễn giảng và truyền thụ 1 chiều nữa mà thay vì đó là điều tra, tìm tòi, đặt và giải quyết vấn đề, dạy học tương tác, vấn đáp, hoạt động nhóm, đóng vai, động não,….Các phương pháp mới này giống với các quốc gia tiên tiến khác như Nhật bản “học sinh là trung tâm”, chỉ khác biệt ở chỗ Nhật đầu tư nhiều hơn về giáo dục nên cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, thư viện, sách, internet của họ cao hơn nước ta nên phương pháp dạy học tích cực của họ có hiệu quả hơn. 5. So sánh giáo viên và học sinh a. Giáo viên Giáo viên Việt Nam ngày càng được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức. Điều này cũng giống với việc đào tạo giáo viên ở Nhật nhưng khác biệt 1 chút về việc Nhật bản đào tạo giáo viên không chỉ về kiến thức mà còn đào tạo rất kĩ và đề cao đạo đức nghề nghiệp, giáo viên mỗi tháng đều phải đến tận nhà học sinh, thường là học sinh kém, cá biệt để nói chuyện với phụ huynh hoặc kèm cặp thêm tại nhà cho học sinh ấy mà không lấy thêm học phí, hướng nghiệp cho các học sinh ngay khi còn trên ghế nhà trường, gặp riêng các em để tư vấn con đường tương lai,… b. Học sinh Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lô gíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế… Học sinh của Nhật không chỉ có các phẩm chất và năng lực trên mà còn có tính cạnh tranh và ý thức cộng đồng cao. 6. So sánh đánh giá kết quả học tập Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong qúa trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục. Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn. Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả qúa trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn – mặt bằng về nội dung học vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơnGiáo dục nước ta có nhiều bài kiểm tra hơn so với giáo dục Nhật bản nên đánh giá kết quả học tập của học sinh 2 nước có sự khác nhau. Cách đánh giá của nước ta đã nêu trên, cách đánh giá của Nhật bản cũng tương tự nhưng họ coi trọng thành tích hơn và tính cạnh tranh hơn như việc công bố điểm bài thi và xếp loại cao thấp trên phạm vi cả trường nghĩa là họ dán danh sách điểm thi và xếp loại trước sân trường để tất cả học sinh đều biết….Cách chấm bài của họ là đúng hết 100 điểm, còn nước ta là 10 điểm… SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ NỀN GIÁO DỤC HÀN QUỐC Vì sao giáo dục Việt Nam trì trệ hơn Hàn Quốc? Đối với du học sinh Hàn Quốc, tìm hiểu về nền giáo dục của đất nước củ sâm sẽ giúp họ bước vào năm học mới mà không gặp nhiều bỡ ngỡ hay “shock” văn hóa. Hầu hết du học sinh tại Hàn Quốc đều nhận định rằng Giáo dục Hàn Quốc phát triển vượt trội và khác biệt rõ rệt so với Việt Nam! Vậy lý do vì sao lại có sự khác biệt ấy? Bài viết này cũng chính là lời giải đáp cho câu hỏi đó. Sự khác nhau về cách tổ chức hệ thống giáo dục Để vươn lên và trở thành đất nước có nền giáo dục tốt nhất và có sức mạnh cạnh tranh với các quốc gia khác đòi hỏi Hàn Quốc phải có một tổ chức hệ thống giáo dục thực sự chất lượng, hiện đại nhưng vẫn mang đậm nét văn hóa bản xứ, đồng thời trở thành một nơi mơ ước được sinh sống và học tập đối với các du học sinh trên thế giới. Như chúng ta đã biết, hệ thống giáo dục Việt Nam, gồm 6 cấp thì tại Hàn Quốc cũng như vậy. Tuy nhiên, Hàn Quốc chú trọng hơn trong việc giáo dục bậc tiểu học với thời gian là 6 năm bắt buộc nhiều hơn so với Việt Nam 1 năm để tạo một nền tảng kiến thức vững chắc cũng như rèn luyện đạo đức và kỷ luật cho học sinh tiểu học trước khi bước vào bậc trung học cơ sở. Theo đánh giá khách quan,một phần tạo nên sự khác biệt trong nền giáo dục hai nước đó là giáo dục ở Hàn Quốc nghiêm khắc hơn giáo dục ở Việt Nam. Học sinh Hàn Quốc có áp lực học tập lớn hơn học sinh Việt Nam do những bài kiểm tra chất lượng định kì và khối lượng kiến thức trên lớp nặng hơn. Điều này giúp học sinh Hàn Quốc có tinh thần tự giác cao trong học tập, có một môi trường tốt để các em có thể vươn lên và tiến tới mục tiêu lớn hơn đó là trở thành sinh viên của những trường đại học danh giá. Người dân Hàn Quốc luôn quan niệm Đại học là cánh cửa quyết định cả cuộc đời và đặc biệt, nếu bước chân vào Đại học Quốc gia Seoul – ngôi trường danh giá nhất Hàn Quốc thì số phận sẽ “bừng sáng” và “lên hương”. Bên cạnh đó, ở Hàn Quốc còn có một số trường Đại học danh tiếng khác như Trường Đại học Korea, Trường Đại học Quốc Gia Busan, Đại học quốc gia Kyungpook, Trường đại học Hanyang,… Bảng so sánh hệ thống giáo dục Việt Nam & Hàn Quốc Sự khác nhau về phương pháp giảng dạy và thời gian học Hàn Quốc đánh giá rất cao sự chuyên nghiệp trong cách dạy của các giáo viên/ giảng viên. Điều đó thể hiện ở việc giáo viên phải làm các bài giảng bằng Powerpoint và lưu chúng vào USB để phục vụ công việc lên lớp. Các phòng học luôn đi kèm với một máy tính kết nối với một hệ thống máy chiếu hiện đại hoặc một màn hình phẳng LCD cỡ lớn. Những thiết bị công nghệ hiện đại giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách nhanh hơn so với việc giảng dạy truyền thống bằng việc viết bảng. Có rất nhiều những kiến thức mà thiết bị công nghệ có thể giúp truyền đạt đến học sinh theo một cách đầy đủ và tốt hơn thông qua những hình ảnh, video, slide,… Giảng viên có thể giao tiếp với sinh viên bằng email. Vì vậy rất tiện lợi để trao đổi, thảo luận các bài giảng trên lớp vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu mà không cần phải gặp mặt. Việc học của sinh viên có thể được cá nhân hóa với sự giúp đỡ của giảng viên bằng cách trao đổi trực tiếp với giảng viên mà không ngại bị đánh giá. Sử dụng thiết bị điện tử dạy học cũng giúp sinh viên có thể chủ động học tập và nghiên cứu độc lập. Sinh viên có thể thảo luận theo nhóm thông qua thiết bị điện tử và Internet để có thể thực hiện việc học tập của mình và đạt kết quả cao hơn. Thời gian học trên lớp 16 tiếng một ngày và đến trường cả vào thứ 7 đối với học sinh trung học Hàn Quốc từ khoảng 8h sáng đến 9h30 hoặc 10h tối. Đối với các học sinh có lực học trung bình, chúng sẽ phải học nhiều hơn thế với mục tiêu vào được cổng trường đại học. Thời gian rảnh học sinh Hàn Quốc thường dành thời gian đọc sách và tự học trên thư viện thể hiện tinh thần tự giác học tập và rèn luyện. Có thể thấy, riêng điều này thôi cũng đã khác biệt so với Việt Nam đúng không nào? Áp lực học tập cũng rèn rũa cho các em chịu đựng áp lực công việc và cuộc sống sau này. Vì thời gian học trên lớp chiếm khá nhiều nên những sinh hoạt ăn uống nghỉ ngơi ngay tại trường với đồ ăn được chuẩn bị sẵn từ nhà mang theo hay các căng tin phục vụ ngay trong khuôn viên trường học. Nếu ở Việt Nam có 2 học kỳ thì tại Hàn Quốc sẽ là 4 học kỳ đối với mỗi năm học. Thời gian bắt đầu vào năm học tại Việt Nam là tháng 9 còn tại Hàn Quốc là tháng 3. Riêng tại Hàn Quốc, sau khi khai giảng, học sinh và sinh viên được nghỉ thêm 1 tuần để nghỉ ngơi và chuẩn bị bước vào năm học mới. Bởi vậy nếu bạn có ý định du học Hàn Quốc, bạn có thể bắt đầu nhập học vào các khoảng thời gian tháng 3, tháng 6, tháng 9 hoặc tháng 12. Có thể thấy rằng, về cơ bản nền giáo dục Hàn Quốc phát triển hơn 1 bậc so với giáo dục Việt Nam. So sánh Hệ thống giáo dục Việt Nam và Vương quốc Anh Biểu đồ so sánh Hệ thống giáo dục Việt Nam và Vương quốc Anh Nhìn qua biểu đồ có thể thấy học tập lên cấp cao nhất tại Anh thời gian ngắn hơn 2 năm so với học tại Việt Nam và các quốc gia khác kể cả Mỹ, Canada Trẻ em bắt đầu đi học lớp 1 tại Anh lúc 5 tuổi, sớm hơn 1 năm so với Việt nam, nhưng bậc tiểu học ở Anh có tới 6 lớp, như vậy kết thúc bậc tiểu học, các em học sinh ở cả Việt Nam và Anh đều là 10 tuổi. Chương trình GCSE Học sinh 13 tuổi đang học lớp 8 ở VN thì tương đương với lớp 9 ở Anh. Có nghĩa là nếu học sinh học xong lớp 8 VN và muốn du học Anh thì bạn đó sẽ học tương đương lớp 10 ở Anh xét về độ tuổi. Tuy nhiên ở Anh, ở độ tuổi 14 này, chương trình học của các bạn sẽ được gọi là GCSE. GCSEs General Certificates of Secondary Education kéo dài 2 năm và là bằng cấp học thuật đầu tiên trong hệ thống văn bằng của Anh Quốc tương đương lớp 9-10 của VN Chương trình A Level – IB – Foundation Sau khi tốt nghiệp GCSE, học sinh có thể lựa chọn một trong các chương trình A-level hoặc Tú tài quốc tế IB hoặc Dự bị Đại học Foundation để có thể vào được Đại học. Do 2 năm học lớp 11, 12 tại Việt Nam gần như không tương thích với hệ thống giáo dục Anh Quốc nên học sinh muốn đi du học Anh ở độ tuổi trung học thường lựa chọn đi du học từ khi kết thúc lớp 10. Tương đương 15 tuổi bước sang tuổi 16 – đây cũng chính là độ tuổi tối ưu để đi du học Anh. Nếu muốn sớm hơn, các em thể chọn đi du học khi kết thúc lớp 8 hoặc lớp 9 tại VN, các em sẽ vào học GCSE 1-2 năm tại Anh, hoặc cũng có những trường có chương trình Pre A Level dành cho các bạn học 1 năm trước khi vào A Level. Ưu điểm của lộ trình này là các em sẽ có được 1-2 năm học là thời gian đủ để học sinh làm quen và hòa nhập với môi trường mới, ngôn ngữ mới, cách thức giáo dục mới tại Anh Quốc trước khi bước vào chương trình A Level khá là khó tại Anh. Ngoài chương trình A Level, học sinh còn có thể có lựa chọn học chương trình IB hay còn gọi là Tú tài Quốc tế. Đây là chương trình học khó, theo đúng tên gọi của nó Tú tài đẳng cấp Thế giới, được Quốc tế công nhận. Có bằng Tù tài Quốc tế, học sinh có thể apply xin học thành công ở bất cứ trường Đại học danh giá trên thế giới, ở bất cứ ngành học nào. Nếu để tóm gọn so sánh giữa A Level và IB thì có thể nói A Level tập trung theo kiểu phân ban, tức là chuyên về một hướng ngành học trong tương lai với kết thúc là 3 môn học. Còn với IB, học sinh sẽ hoàn thành tổng cộng 6 môn học trong 2 năm, học sinh IB toàn diện hơn. Lựa chọn ngành học sau khi kết thúc học IB cũng đa dạng hơn. Dự bị Đại học tại Anh Foundation thường kéo dài khoảng 1 năm học, cũng có chương trình 18 tháng. Đây là chương trình tương đối dễ học hơn đối với học sinh quốc tế. Chương trình Đại học Kết thúc 1 trong 3 chương trình nói trên, bạn sẽ bước vào Đại học Anh. Nếu đi học đúng nhịp học, học sinh ở VN và UK đều vào Đại học ở tuổi 18. Ở Anh học Đại học 3 năm, vì vậy nếu học tại Anh bạn sẽ có bằng Cử nhân sớm hơn ở VN 1 năm Chương trình Thạc sỹ Chương trình thạc sỹ tại Anh khá đặc biệt vì phổ biến chỉ kéo dài 1 năm. So với các nước khác, nếu học thạc sỹ tại Anh học sinh lại tiết kiệm thêm được một năm nữa. tốt Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo dục Những năm gần đây, Trung Quốc đang được quan tâm bởi một nền giáo dục và đào tạo chất lượng cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển ở Việt Nam. Trung Quốc từ lâu đã được biết đến là một trong những nước có nền văn hoá đồ sộ và lâu đời nhất thế giới. Giờ đây, Trung Quốc lại được nhiều người biết đến như một nền kinh tế và kỹ thuật trên đà phát triển mạnh mẽ và một nền giáo dục và đào tạo chất lượng cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Do đó, ngày càng nhiều học sinh – sinh viên Việt Nam đến du học tại Trung Quốc Giáo dục Trung Quốc được chia thành các cấp học như sau – Mẫu giáo 3 năm – Bậc tiểu học 6 năm – Bậc trung học cơ sở 3 năm – Bậc trung học phổ thông 3 năm – Cao đẳng và đại học 4-5 năm – Cao học 2-3 năm – Tiến sỹ 3 năm So sánh sơ đồ Giáo dục Trung Quốc với Việt Nam Chính sách tuyển sinh sinh viên quốc tế của các trường đại học và học viện ở Trung Quốc được bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ 20. Trong hơn 50 qua, Trung Quốc đã luôn chào đón và tạo điều kiện tốt nhất cho du học sinh quốc tế nhất là sinh viên đến từ Việt Nam. Ban đầu, du học sinh quốc tế lưu học tại Trung Quốc phải học tiếng, đạt trình độ tương đương HSK 5-6 Chuẩn kiểm tra Hán Ngữ quốc gia của Trung Quốc. Khi đã đạt cấp độ 5-6 HSK tiếng Trung, cùng với văn bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông hay bằng Đại học của ViệtNam, lưu học sinh có thể nộp đơn xin vào học 1 chuyên ngành Đại học hay sau Đại học và sẽ được nhận vào học mà không phải thi đầu vào. 1 Giáo dục mẫu giáo Dành cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi tại các nhà trẻ. 2 Giáo dục tiểu học Dành cho học sinh từ 6 đến 11 tuổi. Các trường tiểu học thường do chính quyền các địa phương điều hành và được miễn phí. Tuy nhiên, cũng có một số trường tư do các doanh nghiệp và các cá nhân điều hành. 3 Giáo dục phổ thông Dành cho học sinh từ 12 đến 17 tuổi. Các trường phổ thông chủ yếu do chính quyền địa phương điều hành. Các trường phổ thông do nhà nước điều hành bao gồm trường sơ trung và cao trung, cả hai hệ đều kéo dài 3 năm. Sinh viên không bắt buộc phải học cao trung và phải trả khoản học phí nhỏ cho chương trình này. Các trường phổ thông tư thường có chương trình giáo dục chuyên và có xu hướng thiên về dạy nghề nhưng bằng cấp của các trường này được coi là tương đương với các trường công lập. Các sinh viên tốt nghiệp từ các trường chuyên thường có khả năng đỗ đại học cao hơn. Sinh viên tốt nghiệp từ các trường sơ trung thường vào học tại các trường cao trung. Tuy nhiên, có một số sinh viên chọn học tại các trường dạy nghề hoặc trường phổ thông chuyên trong thời gian 3 đến 5 năm. 4 Giáo dục đại học và dạy nghề Đối với chương trình đại học, có các khoá học nghề cũng như các khoá học cấp bằng đại học, sau đại học, và tiến sỹ. Sinh viên theo học cử nhân sẽ học trong vòng 4-5 năm, chương trình Thạc sỹ kéo dài 2-3 năm va tiến sỹ trong 3 năm. Giáo dục đại học do các trường đại học, cao đẳng, các viện và các trường cao đẳng nghề đảm nhiệm. Các cơ sở đào tạo này thực hiện các nghiên cứu khoa học và học thuật, cung cấp các dịch vụ xã hội và các các khoá học cho sinh viên. Để vào trường đại học hay cao đẳng, các sinh viên cần thi đại học – thường diễn ra vào tháng Bảy hàng năm. Việc sinh viên đỗ đại học hay không tuỳ thuộc vào số lượng thí sinh tham dự kì thi đại học và điểm của bài thi, vì vậy vào được đại học đối với sinh viên Trung Quốc cũng là sự cạnh tranh khá lớn. Những sinh viên không đỗ đại học có thể vào các trường cao đẳng tư nếu muốn tiếp tục việc học tập. Học tập tại các trường cao đẳng này thường đắt đỏ hơn các trường đại học công lập. Các sinh viên không có điều kiện học đại học, cao đẳng có thể trau dồi kiến thức cho mình thông qua quá trình làm việc. Giáo dục đại học ở Trung Quốc rất phát triển trong những năm vừa qua với hơn 2000 trường đại học và cao đẳng cấp các loại bằng cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ. Cách đây hơn 50 năm, Trung Quốc đã chấp nhận học sinh nước ngoài tới học tập. Trong số hơn 2000 trường đại học và cao đẳng, hơn 300 trường hiện có sinh viên nước ngoài theo học. Chương trình dành cho sinh viên nước ngoài bao gồm 2 năm học cấp ba, chương trình đào tạo lấy bằng cử nhân cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ; chương trình không cấp bằng và chương trình đào tạo ngôn ngữ. Tất cả các trường đại học và cao đẳng có sinh viên nước ngoài cung cấp các điều kiện tốt nhất cho sinh viên ăn, ở ngay tại trường hoặc gần trường . Các sinh viên nước ngoài sống ở Trung Quốc có thể sống ở ngoài khuôn viên của trường tuỳ theo nguyện vọng. Các chương trình học bổng thường chương trình trao đổi song phương, và các sinh viên thường xin học bổng qua chính phủ. Các sinh viên cũng có thể nộp trực tiếp cho trường đại học hoặc cao đẳng mà mình muốn học tập tại đó. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC TIỂU LUẬN MÔN HỌC GIÁO DỤC SO SÁNH Giảng viên PGS. TS. Nguyễn Tiến Đạt Học viên Nguyễn Thị Hạnh Cao học QLGD K12 Lớp 1 HÀ NỘI - 2013 Nhận xét của giảng viên chấm bài ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... Điểm ............................... Giảng viên kí tên ........................ 2 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc làm sau khi tốt nghiệp luôn là vấn đề bức xúc không chỉ đối với bản thân sinh viên mà cả đối với gia đình, nhà trường và xã hội. Có một việc làm đúng với ngành nghề đào tạo luôn là mơ ước của không chỉ sinh viên tốt nghiệp ra trường mà ngay cả với các em còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Đây cũng là một trong những vấn đề nhức nhối và luôn được xã hội quan tâm. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, việc biết mình biết người là một phương cách quan trọng để tăng cường khả năng cạnh tranh. Giáo dục đại học cũng nằm trong guồng quay đó. Việc so sánh giữa cơ sở đào tạo này với cở sở đào tạo ở các khía cạnh khác nhau trên tinh thần bình đẳng và nguyên tắc khách quan khoa học sẽ góp phần giúp các nhà trường biết rõ hơn những ưu nhược điểm của trường mình trong sự so sánh với ưu nhược điểm của trường khác. So sánh không phải để chứng minh tính ưu việt của hoạt động đào tạo của trường mình hay sự yếu kém của một cơ sở đào tạo nào đó mà để có cái nhìn khách quan, toàn diện về thực tế chất lượng và hiệu quả của các mảng hoạt động của trường. Vấn đề việc làm cho sinh viên tốt nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ cơ sở đào tạo nào. Vì vậy, việc so sánh tỷ lệ sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp giữa các cơ sở đào tạo, từ đó tìm ra biện pháp tăng tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp là một trong những hoạt động thiết yếu, quan trọng đối với cơ sở giáo dục cần cải thiện vấn đề này. Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục là hai cơ sở đào tạo mà tôi có hiểu biết khá sâu sắc vì một nơi là nơi tôi đang công tác và một nơi là nơi tôi đã có 4 năm học đại học. Hai trường vừa có những điểm tương đồng và có những điểm khác biệt trên nhiều khía cạnh trong đó có mảng việc làm của sinh viên tốt nghiệp. 3 Xuất phát từ những yêu cầu trên và từ thực tế tình trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, sau khi học xong môn Giáo dục so sánh em đã áp dụng và chọn viết tiểu luận “So sánh tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên tốt nghiệp trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tăng tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo cho sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục». 2. Mục tiêu nghiên cứu So sánh tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục sau 12 tháng tốt nghiệp. Từ đó đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo cho sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục - Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu số liệu thống kê về tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục trong 2 năm 2011 và 2012 Vì hai trường đều mới có sinh viên tốt nghiệp từ năm 2011 và chu lỳ thống kê việc làm của sinh viên tốt nghiệp của 2 trường là 12 tháng kể từ ngày tốt nghiệp. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng lý luận về giáo dục so sánh, quản lý giáo dục trên lĩnh vực GD-ĐT và sử dụng phương pháp điều tra thực trạng, thu thập số liệu, so sánh, đối chiếu, pương pháp phân tích đánh gia trên biểu đồ, phương pháp so sánh tổng hợp. 4 5. Kết cấu của tiểu luận Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung của Tiểu luận được chia thành 3 chương và các vấn đề cụ thể như sau Chương 1 Sơ lược bối cảnh, hoạt động đào tạo của Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục Chương 2 So sánh tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục Chương 3 Những nhận xét về tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tăng tỷ lệ có việc làm đúng ngành đào tạo cho sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục 5 B. PHẦN NỘI DUNG I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC FPT VÀ HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC Sơ lược về lịch sử và hoạt động đào tạo của Trường Đại học FPT Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục đều là những trường đại học có quyết định thành lập từ năm 2006 và trong 7 năm đào tạo mỗi trường đều có những thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực đào tạo của mình. Trường Đại học FPT được thành lập theo quyết định số 208/2006/QĐ-TTg ngày 08/09/2006 của Thủ tướng Chính phủ với tổ chức tiền thân là hệ thống đào tạo lập trình viên Aptech. Trường được thành lập với mục tiêu ban đầu tập trung vào việc đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao chuyên ngành CNTT và các nhóm ngành khác có liên quan cho tập đoàn FPT, các doanh nghiệp CNTT Việt Nam cũng như cho các tập đoàn CNTT toàn cầu tại khắp nơi trên thế giới. Trường được thành lập và hoạt động với sứ mệnh “Trở thành trường đại học thế hệ mới trong lĩnh vực CNTT và các nhóm ngành khác trên cơ sở lấy CNTT làm nền tảng, có triết lý giáo dục hiện đại, trên cơ sở xây dựng các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, gắn liền đào tạo với nhu cầu thực tiễn, nghiên cứu với triển khai các thành tựu công nghệ hiện đại, nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các tổ chức/Doanh nghiệp tại Việt Nam và khắp nơi trên thế giới.” Đặc thù của nhà trường là Đào tạo định hướng công việc; Nội dung và phương pháp giáo dục hiện đại; Đào tạo con người toàn diện, hài hòa; Chương trình luôn được cập nhật và tuân thủ các chuẩn công nghệ quốc tế; Đặc biệt chú trọng năng lực ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, làm việc theo nhóm và các kỹ năng cá nhân khác. Đến nay Trường Đại học FPT đang tổ chức đào tạo 05 ngành sau  Kỹ thuật phần mềm  Điện tử và Truyền thông 6  Khoa học máy tính lớp đặc biệt đào tạo lên bậc tiến sĩ dành cho các sinh viên tài năng  Quản trị kinh doanh  Tài chính –Ngân hàng Tính đến tháng 6 năm 2013, Trường Đại học FPT có 4993 sinh viên hệ đại học chính quy. Trải qua 7 năm hoạt động, đến nay Trường có 813 sinh viên tốt nghiệp, đóng góp nguồn nhân lực chất lượng cao cho Tập đoàn FPT cũng như một số doanh nghiệp CNTT khác trong và ngoài nước. Sơ lược về lịch sử và hoạt động đào tạo của Học viện Quản lý giáo dục Học viện Quản lý giáo dục có tiền thân là Trường Bồi dưỡng giáo viên và Cán bộ quản lý giáo dục, được Bộ Giáo dục nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo thành lập từ tháng 6/1964. Đến năm 1966 Bộ Giáo dục quyết định thành lập Trường Lý luận nghiệp vụ giáo dục trực thuộc Bộ để thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng cho CBQLGD Năm 1976 Trường Cán bộ quản lý Giáo dục được thành lập theo quyết dịnh số 190/TTg ngày 01/10/1976 của Hội đồng Chính phủ. Năm 1990 Bộ Giáo dục và Đào tạo được thành lập trên cơ sở hợp nhất Bộ Giáo dục với Bộ Đại học, THCN và Dạy nghề thì Trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo được thành lập trên cơ sở hợp nhất Trường Cán bộ quản lý Giáo dục, Trường Cán bộ quản lý Đại học, THCN và Dạy nghề và Trung tâm nghiên cứu tổ chức quản lý và kinh tế học giáo dục. Năm 2006 Học viện Quản lý giáo dục được thành lập trên cơ sở Trường Cán bộ Quản lý giáo dục và Đào tạo, bắt đầu thời kỳ mới. Học vịên hiện tại tập trung đào tạo 3 chuyên ngành Quản lý giáo dục, Tâm lý học, Tin học ứng dụng. Nghiên cứu các đề tài, đề án về khoa học giáo dục. 7 II. SO SÁNH TỶ LỆ CÓ VIỆC LÀM VÀ CÓ VIỆC LÀM ĐÚNG NGÀNH ĐÀO TẠO CỦA SINH VIÊN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC FPT VÀ HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC. 1. Thông tin số lượng sinh viên của Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục Bảng 1 Số lượng sinh viên của 2 trường từ năm học 2007 - 2008 đến nay Trường 2008 - 2010 2007 - 2009 2011 2008 2009 - 2011 - 2012 2010 Trường Đại học FPT Học viện Quản lý giáo dục 475 1340 1984 1157 3761 2661 3548 4961 4651 4660 Biểu đồ 1 Số lượng sinh viên của 2 trường từ năm học 2007 - 2008 đến nay Nhìn vào biểu đồ so sánh số lượng sinh viên của 2 trường trong 05 năm gần đây, ta thấy khoảng cách chênh lệch giữa 2 trường ngày càng được rút ngắn và có xu hướng tăng dần qua các năm Số lượng sinh viên Trường Đại học FPT tăng nhanh qua các năm, thể hiện hiệu quả của công tác tuyển sinh và 8 số lượng sinh viên Học viện Quản lý giáo dục tăng đều qua các năm. Đến năm học 2011-2012 thì số lượng sinh viên 2 trường gần như tương đương nhau. 2. So sánh tỷ lệ sinh viên có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên sau khi tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục. Số lượng sinh viên tốt nghiệp của Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục từ năm 2011 đến nay. Do cả 2 trường đều tuyển sinh khóa đầu tiên từ năm 2007, do vậy đến năm 2011 mới có sinh viên tốt nghiệp. Vì vậy số liệu việc làm của sinh viên tốt nghiệp được xem xét từ năm 2011 đến nay. Việc thống kê tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp được 2 trường thực hiện sau 6 tháng và một năm kể từ ngày sinh viên tốt nghiệp. Ngoài ra, Đại học FPT có đặc thù so với các trường đại học khác là một năm học có 3 lần tốt nghiệp tương đương với 3 kỳ học ở đây. Vì vậy, số liệu năm 2013 của trường Đại học FPT mới là số liệu sinh viên tốt nghiệp đợt 1 của trường. Ngoài ra do thắt chặt đầu ra nên số lượng sinh viên tốt nghiệp hằng năm của trường cũng không đạt tỷ lệ cao như các trường đại học khác. Bảng 2 Số lượng sinh viên tốt nghiệp của Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục từ năm 2011 đến nay Trường 2011 Trường Đại học FPT 305 Học viện Quản lý 1298 giáo dục 9 2012 2013 282 226 1301 1112 Biểu đồ 2 Số lượng sinh viên tốt nghiệp của 2 trường từ năm 2011 đến nay Nhìn vào biểu đồ ta thấy số lượng sinh viên tốt nghiệp Học viện quản lý giáo dục cao hơn hẳn so với sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT. Tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục. Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục thống kê số lượng sinh viên tốt nghiệp có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo sau 12 kể từ ngày tốt nghiệp của sinh viên. Vì vậy, số liệu về số lượng và tỷ lệ sinh viên có việc làm của 2 trường chỉ thống kê đến năm 2012. Tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục. Bảng 3 Số lượng và tỷ lệ có việc làm trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại học FPT Học viện Quản lý giáo dục năm 2011 và 2012 Trường Trường Đại học FPT 2011 2012 300 271 Học viện Quản lý giáo 766 59% dục 10 611 47% Biểu đồ 3 Tỷ lệ có việc làm trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục năm 2011 và 2012 Nhìn vào biểu đồ có thể thấy tỷ lệ có việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học FPT cao gần gấp đôi so với sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm của Trường Đại học FPT rất cao và có xu hướng giữ ổn định từ năm 2011 đến năm 2012. Trong khi đó tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục khá thấp, và có xuông hướng giảm qua 2 năm. Tỷ lệ có việc làm đúng ngành đào tạo của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục. Bảng 4 Số lượng và tỷ lệ có việc làm đúng ngành đào tạo trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục năm 2011 và 2012 Trường Trường Đại học FPT 2011 2012 258 241 86% 89% Học viện Quản lý giáo 544 71% dục 11 397 65% Biểu đồ 4 Tỷ lệ có việc làm đúng ngành đào tạo trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp của sinh viên Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục năm 2011 và 2012 Nhìn vào biểu đồ, ta thấy, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo của trường Đại học FPT cao hơn và có xu hướng tăng nhé qua 2 năm so với Học viện Quản lý giáo dục. Học viện Quản lý giáo dục có tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo thấp hơn và có xu hướng giảm từ năm 2011 đến 2012. 12 CHƯƠNG III NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH VIỆC LÀM CỦA SINH VIÊN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG TỶ LỆ SINH VIÊN TỐT NGHIỆP CÓ VIỆC LÀM VÀ CÓ VIỆC LÀM ĐÚNG NGÀNH ĐÀO TẠO CHO SINH VIÊN Ở ĐÂY Nhận xét về tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục Qua số liệu ở Chương II và trong sự đối chiếu với các số liệu về tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp trường Đại học FPT, xin có mấy nhận xét dưới đây về tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục - Số lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm Học viện Quản lý giáo dục là khá lớn, trung bình khoảng 1200 sinh viên một năm. - Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm sau 12 tháng kể từ ngày tốt nghiệp của Học viện Quản lý giáo dục thấp và có xu hướng giảm qua 2 năm 2011, 2012 - Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo của Học viện Quản lý giáo dục đạt ở mức khá, khoảng 70% và có xu hướng giảm qua 2 năm. Một số nguyên nhân dẫn tỷ lệ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo thấp của sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp khó tìm được việc làm trong đó bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan Về mặt khách quan Trong bối cảnh hoạt động sản xuất, kinh doanh có nhiều khó khăn, nhu cầu tuyển dụng lao động bị thu hẹp. Đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước, nhu cầu tuyển dụng công chức, viên chức ngày càng có yêu cầu cao hơn về chất lượng và có nơi thừa về số lượng. Một nguyên nhân khác, việc có thêm nhiều cơ sở đào tạo Trường cao đẳng, đại học ra đời dẫn đến số lượng sinh viên được đào tạo ở cùng các ngành, chuyên ngành ngày càng nhiều, cung vượt cầu. 13 Về mặt chủ quan Việc có được việc làm hay không, liên quan rất nhiều đến phẩm chất, năng lực, trình độ, kỹ năng của người được đào tạo. Vì thế, mặc dù số lượng sinh viên tốt nghiệp từ các ngành đào tạo hàng năm rất lớn nhưng số đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng lao động không phải nhiều. Ngoài ra, không phải đơn vị đào tạo nào cũng thực hiện tốt hoạt động liên kết với các đơn vị sử dụng lao động để thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa cung và cầu. Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng tỷ có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo cho sinh viên tốt nghiệp Học viện Quản lý giáo dục Nhà trường - Nâng cao chất lượng đào tạo Cập nhật chương trình, giáo trình đào tạo theo hướng hiện đại, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong soạn giảng, áp dụng sơ đồ tư duy, tăng cường hành, thực tập, tổ chức câu lạc bộ tuổi trẻ sáng tạo, chú trọng giáo dục cho sinh viên những kỹ năng mềm về giao tiếp, xử lý tình huống, ngoại ngữ, tin học, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học... - Tăng cường các hoạt động hỗ trợ người học về vấn đề việc làm + Giới thiệu sinh viên đến thực tập tại các doanh nghiệp, tổ chức nhằm cho sinh viên có cơ hội tiếp cận với các đơn vị sử dụng lao động; + Làm vai trò cầu nối giữa các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có nhu cầu sử dụng lao động với sinh viên Người học - Cần nâng cao nhận thức về việc học tập, rèn luyện, từ đó xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn - Phải có cách nhìn nhận mới về vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường để trau dồi năng lực, phẩm chất cá nhân để đáp ứng yêu cầu tuyển dụng và có khả năng tự tìm kiếm việc làm-tự tạo việc làm-tạo việc làm cho người khác.. 14 C. PHẦN KẾT LUẬN Vấn đề việc làm cho người tốt nghiệp luôn là mối quan tâm hàng đầu cho bất kỳ một cơ sở đào tạo nào, bởi đó là thước đo thực tế nhất về chất lượng đào tạo. Vì thế nâng cao tỷ lệ sinh viên có việc làm và có việc làm đúng ngành đào tạo luôn là bài toán được đặt ra cho các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở có sự hiểu biết nhất định về tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học FPT và Học viện Quản lý giáo dục, nhận thấy có nhiều điểm tương đồng và khác biệt giữa 2 trường, em đã thực hiện so sánh như trên với mong muốn nhìn nhận thực tế tình hình việc làm của Học viện Quản lý giáo dục và đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện vấn đề. Trong quá trình nghiên cứu và viết tiểu luận, với vốn kinh nghiệm bản thân chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn đề tiểu luận của em được đầy đủ hơn. NGƯỜI VIẾT Phan Thị Nga 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Tiến Đạt, Giáo dục so sánh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 2. Nguyễn Tiến Đạt, Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo trên thế giới – Tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 2004 3. Nguyễn Tiến Đạt, Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo trên thế giới – Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005 4. File theo dõi tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp trường Đại học FPT 5. Thống kê tình hình việc làm của sinh viên Học viện Quản lý giáo dục 16

so sánh giáo dục việt nam và trung quốc